Thứ Tư, 1 tháng 7, 2020

Chút Kỷ Niệm Về Ca Nhạc Sĩ Duy Khánh



Cái Bè, Tiền Giang, năm 1978.
Buổi tối trời mưa lất phất, cái rạp hát gần Cầu Đúc đêm nay sáng đèn. Có đoàn ca nhạc từ Sài Gòn về trình diễn. Khán giả ngồi kín rạp nhỏ ước chừng 400 ghế gỗ. Sân khấu cũng nhỏ có hai bên cánh gà màn vải sậm màu đã bắt đầu tơi tả, nhưng duới ánh đèn nhìn cũng còn chu tất. Người ca sĩ tuổi độ trung niên là tiết mục được công chúng rỉ tai mua vé vào xem,và được chờ đợi nhất ở cuối chương trình. Với chất giọng nam sáng khỏe hát tròn vành rõ chữ,mang âm hưởng miền Trung đặc biệt, Ông dễ dàng chinh phục khán giả bằng bài hát cũ Tình nước :
.. Quê hương anh nước mặn đồng chua… bây giờ sau giải phóng được đổi tên là Tình đồng chí. Bài hát “dò la” này được phép trình bày, nhanh chóng thông qua để người ca sĩ bung những tuyệt chiêu sở trường nhạc quê hương lồng trong tình anh lính chiến. Tiếp đó là những ca khúc về người lính ‘chế độ cũ’ :
???? ” Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm
Sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm.
Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu.
Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau..”
Giọng ca DUY KHÁNH lồng lộng như mây trắng Trường Sơn, bao la như ruộng đồng bát ngát..Tiếng hát với âm vực cao rộng, luyến láy tài tình âm sắc miền Trung gió cát, có thể chạy dài tới 21 quãng trường canh, lên cao mà không chói, xuống thấp nốt trầm không hề đục .
” Nào những khi ôm thép súng tê vai
Đăm mắt theo bao hư ảo thở dài
Nơi chốn xa buồn thương mẹ quang gánh
Em còn khêu sáng ánh đèn từ suơng mai”
( Sương trắng miền quê ngoại – Đinh miên Vũ )
Khán giả như bị thôi miên trước giọng ca bất hủ này, mấy bà mấy chị lớn tuổi ngồi nghe mà miệng há ra, như nuốt cả lời ca vào bụng. Họ ngơ ngẩn vì lần đầu được thấy người danh ca trước mặt. Còn ca sĩ ban nhạc thì vừa diễn vừa sợ, vì đây là đoàn hát chui không có giấy phép. Hát xong lập tức di chuyển liền, họ bị cấm hát vì là ca sĩ chuyên hát nhạc lính cũ. Với cấp bậc hạ sĩ quan tâm lý chiến, thuộc bộ CTCT, thì dễ gì mà được hát. Duy Khánh, Nhật Trường, Chế Linh, Thanh Lan .. đều như thế cả..
Trời đêm gần Tết se lạnh, người danh ca như được tiếp sức mạnh từ sự nồng nhiệt của khán giả, như mạnh mẽ thêm. Ông tiếp bài hát đã đóng đinh tên tuổi mình lên hàng đệ nhất ca sĩ tân nhạc Việt Nam. Bài hát này ông không có đối thủ ..Vang mà nghẹn..
???? Con biết bây giờ mẹ chờ tin con.
Khi thấy mai đào nở vàng bên nương.
Năm trước con hẹn mùa Xuân sẽ về
Nay én bay đầy trước ngõ
Mà tin con vẫn xa ngàn xa..”
Chạm ngay tới nỗi niềm nhà có người đi học tập cải tạo, những Hoàng Liên sơn, Ba Sao, Suối Máu, Hàm Tân … mấy năm rồi đi thăm nuôi xa biền biệt đày ải .. biết ngày nào về ? Có bà mẹ nào ngồi dưới thầm lau giọt nước mắt.
???? Duy Khánh tên thật là Nguyễn Văn Diệp, sinh năm 1936 tại huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. Tên ông được tiết lộ là ghép giữa tên nhạc sĩ Phạm Duy – một đàn anh trong nghề có sức ảnh hưởng lớn và Khánh tên một người bạn đã chết từ lâu. Thành công từ năm 16 tuổi với giải nhất đài Pháp Á tại Huế với ca khúc Trăng Thanh Bình, ông không theo truyền thống khoa bảng của gia đình mà dấn thân hẳn vào sinh hoạt văn nghệ.
Vào Sài Gòn mảnh đất màu mỡ của những ca sĩ muốn thành danh, Duy Khánh bật lên thành ngôi sao sáng chói với những ca khúc đậm đà tình yêu quê hương – quê nghèo và những mảnh đời dân quê ( Về miền Trung, Tình nghèo, Đêm nguyện cầu, Hoa vẫn nở trên đường quê hương, Ai ra xứ Huế, Thuơng về miền Trung, Sương trắng miền quê ngoại, Hòn vọng phu…)
Ông cũng tham gia sáng tác với số lượng không ít, có rất nhiều bài in dấu trong lòng khán giả. Sở trường của ông là nghiêng về quê hương xứ sở, ít khi là tình cảm trai gái lứa đôi. Bài nào cũng gắn với tình yêu mảnh đất chan chứa yêu thương nơi mình sinh ra và lớn lên cùng tao loạn. Khác với Nhật Trường thế mạnh song song là hát và sáng tác, Duy Khánh thiên về hát nhiều hơn với chất giọng lạ kỳ hiếm có, pha chút âm thanh ngũ cung luyến láy đặc biệt, nhất là những câu có dấu thanh ngã – hỏi ( ~,?) không ai có thể hát giống được .
” Ngoài kia súng nổ, đốt lửa đêm đen, tầm đạn hay tiếng emmmmm…” ( Kẻ ở miền xa ).
Giọng ngân cuối câu của Duy Khánh rất đặc biệt, dài và vang xa trong âm vực rộng, rung nhịp từ trong đáy cổ, gọi là ” đổ hột “, có người không thích vì nó hơi ” mái “, những ai yêu mến thì lại thấy thích mê.
???? Là một quân nhân, lại nằm trong biệt đoàn văn nghệ Trung ương, chung với những nghệ sĩ tài danh khác . Những khi không phải phục vụ tại những tiền đồn xa xôi hẻo lánh, ủy lạo tinh thần binh sĩ, ông lại trở về thủ đô Saigon với những hoạt động ca nhạc riêng mình. Băng nhạc ( Akai, cassette ) TRƯỜNG SƠN từ cuốn 1_ 11 phát hành toàn quốc. Những bản nhạc rời in offset màu rất đẹp lúc bấy giờ (thập niên 60_ 70) của trung tâm này luôn luôn bán hết với các sáng tác của Trúc Phương, Trầm tử Thiêng, Anh Bằng, Trịnh Lâm Ngân, Hoàng Thi Thơ…). Ông cũng hát nhạc của Chế Linh, Nhật Trường, Hùng Cường (ít )., Và ngược lại. Bốn nam danh ca này thời đấy mệnh danh ” Nhạc vàng tứ trụ “. Họ đều là ca sĩ mặc áo lính, dọc ngang khắp nẻo đường đất nước. Kiếm sống cho mình nhưng cũng là phục vụ cho một lý tưởng.
???? Cao ngất Trường Sơn ôm ấp tình ai nước ra sông nguồn .
Tìm về Biển Đông tình yêu thành sông Thái Bình Dương .” ( Biển mặn)
Tuy nhiên cũng có bài Duy Khánh hát không” bắt” ví dụ như” Chiều một mình qua phố” của Trịnh Công Sơn, hay dòng nhạc bán cổ điển ông cũng không hạp. Ngoài Bắc cũng có những giọng nam đặc biệt như Quốc Hương, Trung Kiên .. họ cũng mặc áo lính bên kia bờ chiến tuyến. Nếu quê hương này không có cuộc nội chiến tương tàn mấy chục năm. Quốc Hương âm hưởng giọng khu 5 riêng biệt cũng bừng sáng lên như các anh em bên này vĩ tuyến ?!
???? Trung tâm ca nhạc quận 10, Sài Gòn. Đêm đã dần trôi..
Năm 1987.
Lúc này đây là điểm biểu diễn ca nhạc ngoài trời hút khách mạnh nhất, tưong đương với điểm diễn rạp Xổ số kiến thiết ở quận 1. Danh ca Nhật Trường tới trước. Ông đang ngồi chờ ở hậu trường thì Duy Khánh bước vào .
Lúc này các ông đã được hát chính thức, dĩ nhiên là các bài mới, không được xé rào bài cũ để bị cấm hát nữa. Hai người bạn danh tiếng chào nhau. Họ nói chuyện bằng chất giọng địa phương đặc sệt Quảng Trị và Phan thiết. Duy Khánh sau này bất đắc chí nên ông uống rượu nhiều, sau năm 75 còn gì rượu Tây, uống toàn thứ độc dược thuốc rầy be bét. Lại có tật sát giờ hát mới tới điểm diễn, người ta chờ ông chứ ông không chờ ai hết. Cỡ Nhật Trường lừng lẫy, hát – viết song toàn, độ phủ sóng có phần rộng hơn, mà cũng nhường Duy Khánh .
-“Anh hát trước đi “.
Duy Khánh lên sân khấu và ngân nga…
Tôi hát bài ca ngợi cả cây lúa..
Và người trồng lúa cho hôm nay
(Bài ca cây lúa – Hoàng Vân)
Ông hát nhạc đỏ mà vẫn nghe nồng nàn như thường, sau ngày đứt phim, rất nhiều ca sĩ nhạc vàng vì miếng cơm manh áo phải đi hát nhạc đỏ để kiếm tiền sinh sống. Khi ông hát thì hoàn toàn đèn sáng, không chớp tắt, múa minh họa tai họa gì cả nhé. Với chuyện nhường bài của ca sĩ hàng top chạy cả chục show một đêm, 10 phút chờ là nể nang nhau lắm, là cắt đi phần mình đó. Nhưng họ tôn trọng nhau, đó là lối cư xử của bậc đàn anh quý tài yêu nết với nhau. Chuyện này chính mắt tôi trông thấy.
???? Với gia tài âm nhạc đồ sộ, hoạt động lúc nổi lúc chìm, hơn 20 album trước và sau 1975, từ trong mảnh đất quê hương ra tới hải ngoại. Cùng chương trình ca nhạc “Trường Sơn show” cá nhân ăn khách bậc nhất của đài số 9 THVN trước 75, sánh ngang với các chương trình tạp lục Hoàng Thi Thơ, show Thẩm Thuý Hằng, kịch Kim Cương, kịch Sống Tuý Hồng, cải lương Dạ Lý Hương, show Tiếng hát đôi mươi của Nhật Trường. Danh ca Duy Khánh với nội lực giọng hát vô đối mạnh gấp hai người khác, hát dễ dàng như người ta nói, chất giọng trăm năm có một..
” Vang vang như tiếng trống Cổ thành trên đồi Vọng Cảnh ” ( Phạm Duy).
Đã in dấu sâu đậm vào lòng người dân Việt khắp nơi bất kể chính kiến vào mọi thời điểm – mọi không gian, mãi mãi là một thứ tài sản quốc gia không thể thay thế.❤ Hiện tượng Duy Khánh mania với ba mặt : thanh – sắc – tài hoàn hảo. Vừa viết vừa hát vừa là người tổ chức ( production). Vàng ròng người ta cất trong ngân hàng két sắt còn Ông cất trong cổ họng mình, ngân nga luyến láy tài tình, chuốt từng từ rất kỹ. Ở Duy Khánh không có style nỉ non nhão nhẹt như người khác. Mà kiểu hát tròn vành rõ chữ chân phương như chan tình cảm vào mỗi lời ca. Pha chất hùng của nhạc lính mà cũng phảng phất chút bi của quê hương Việt Nam đau khổ, những mất mát chia ly của con người trong cuộc chiến được diễn xuất ngoại hạng qua tiếng hát ông, không làm bi lụy nản chí, mà chỉ thoáng chút bùi ngùi nhân văn.
???? ” Về đây hoa lá cỏ cây cũng buồn theo tháng ngày
Trở lại xóm đạo còn đâu người yêu ôi hoang vắng đìu hiu
Nhặt cành hoa trắng xót xa tôi cài lên trên nấm mộ xanh cỏ lá
Em ơi em ơi nhớ hoài nhớ nhau muôn đời
Vì chinh chiến ngược xuôi nên tôi cách xa em rồi ”
( Người em Xóm đạo – Bằng Giang)
☘️ Thật là tài năng không đối thủ. Ông cũng là người chung thủy, lần lượt hai đời vợ với năm đứa con, nhưng hông có người nào hoạt động văn nghệ chuyên nghiệp như bố. Những ngày khi ra được nước ngoài, ông vẫn đau đáu nỗi lòng nhớ thương quê cũ nơi chôn nhau cắt rốn. Nơi đã sản sinh và tạo dựng một tài năng kiệt xuất.
Mơ một ngày về được hát tự do trên quê hương với bạn bè chí cốt. Như trong bài hát Xin anh giữ trọn tình quê, ngỡ là lời tiên tri .
“Ngày mai ta xa nhau rồi
Nhưng tin trong đời anh vẫn còn gặp tôi
Quê cũ mừng vui ..”
Ông không còn cơ hội nào để quy cố hương.
☸ DUY KHÁNH mất ngày 12/2 /2003 tại bịnh viện Fountain Valley, quận Cam, bang California.
Hưởng thọ 66 tuổi.☸
Kết thúc ánh sáng một ngôi sao Bắc Đẩu rạng ngời ngời. Người đời sẽ nhớ mãi người con Quảng Trị quê nghèo mà chân chính.
???? ” Tôi sinh ra giữa lòng miền Trung, miền thuỳ duơng, ruộng hoang nước mặn đồng chua, thôn xóm tôi sống đời dân cày ”
( Tình ca quê hương – Duy Khánh sáng tác năm 1966.
☘ Tuấn Tony viết xong một đêm rạng sáng tháng 5/2018, mùa đông Sydney). Để dân ta cùng nhớ tiếc một tài năng trăm năm có một. Con xin lạy Chú !!!!

Phạm Công Thiện: Trách Nhiệm Của Tuổi Trẻ Việt Nam Với Quách Tấn

Đối với Quách Tấn, tôi đã nói hết những gì cần nói trong hệ TƯ TƯỞNG. Tản Đà chấm dứt thế kỷ 19 và Quách Tấn là thi hào vĩ đại nhất ở thế kỷ 20. Cho mãi đến năm 1970 này, tôi cũng chưa thấy ai đủ sức mạnh tâm linh đứng ngang hàng Quách Tấn.
Từ năm 1932, ngày “trọng đại” mà Hoài Thanh cho rằng “một cuộc cách mạng về thi ca đã nhóm dậy” ngày đó, đối với tôi, cũng chính là ngày tang tóc của cảm thức tâm linh Việt Nam.
Trước năm 1932, cảm thức tâm linh Việt Nam đã bị Tàu đục khoét cho đến độ tan rã, chỉ có Tản Đà là người cuối cùng cứu vớt lại, sau năm 1932 chỉ còn Quách Tấn cứng đầu đi tới và tàn bạo khinh miệt tất cả cuồng phong từ Tây phương thổi tới.
Đứng bên Quách Tấn có Hàn Mặc Tử, mặc dù Hàn Mặc Tử là một nhà thơ Tây phương hơn cả những nhà thơ Tây phương vĩ đại ở Tây phương, nhưng nhờ định mệnh tàn khốc và cơn đau linh thiêng đã xô đẩy Hàn Mặc Tử đến cảm thức hố thẳm toàn triệt của buổi chiều vàng vọt ở Đông phương; nhờ thế, Hàn Mặc Tử đã đến kịp với Quách Tấn trong tiết nhịp vĩnh cửu của Việt Nam.
Hàn Mặc Tử đi xuống và Quách Tấn đi lên, giống như sự lên và xuống, cả – Heraclite và Larmenide: hai người chỉ là một, một người đau một lần rồi chết rồi một người đau suốt đời rồi chết một lần. Hai người đã nhìn thấy vĩnh cửu trong một lần đau và một lần chết. Song, ĐAU và CHẾT có nghĩa gì đối với hai đứa con Đông phương nhất của Đông phương. Việt Nam nhất của Việt Nam.
Đang lúc cả một thời đại đâm đầu ngu xuẩn chạy theo Tây phương từ thơ Mới đến thơ Tự Do, chỉ có một người điềm nhiên bất động đứng lại với – quê hương: QUÁCH – TẤN.
Hôm nay tôi không muốn nói thể thơ mà thôi, tôi muốn nói cả – Hồn thơ: có ai cảm nhận hồn thơ Dân tộc như Quách Tấn ? Có ai cảm dưỡng hào khí của Thiền tông Việt Nam như Quách Tấn? Quách Tấn xứng đáng là kẻ nối dòng của Không lộ thiền sư, Vạn hạnh thiền sư, Ngộ ấn thiền sư và tất cả những thiền sư thi sĩ đã nuôi dưỡng linh hồn của cả một dân tộc, linh hồn của một Lý Thường Kiệt đánh Tống và Trần Hưng Đạo đánh Nguyên. Sau Nguyễn Du, sau Tản Đà, chỉ còn có Quách Tấn, và Quách Tấn còn hơn cả Nguyễn Du và Tản Đà vì chính Quách Tấn đã chịu thảm kịch bi đát nhất gấp trăm ngàn lần Nguyễn Du và Tản Đà, Nguyễn Du chỉ chịu đựng cảm thức tan nát của Trung hoa, Tản Đà chỉ chịu đựng cảm thức tan nát của Trung hoa và Tây phương , còn Quách Tấn lại chịu đựng cảm thức tan nát của Trung hoa, Tây phương cận đại và Tây phương hiện đại, Tây phương của Hippies và nôn mửa.
Hàn Mặc Tử là một người chịu ảnh hưởng Tây phương một cách sâu thẳm và tốt đẹp nhất; ở Việt Nam tôi chỉ thấy một người Ki-tô giáo đúng nghĩa ; Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử là người tín hữu Ki-tô giáo duy nhất : Kierkegaard đã đau đớn vì không tìm thấy một tín hữu Ki-tô giáo như vậy ( nếu Kierkegaard còn sống đến thế kỷ 20 và gặp thấy Hàn Mặc Tử thì chắc chắn Kierkegaard chết một cách thỏa mãn).
Còn Quách Tấn là một Phật tử trọn vẹn, đã thu tóm tất cả những thơ mộng của Phật giáo vào trong cuộc đời trầm lặng của mình. Quách Tấn đã đi ngược lại tất cả phong trào thời
Tất cả thi sĩ Việt Nam từ tiền chiến cho đến bây giờ đều là một lũ hèn họ chạy theo ngoại bang bằng cách này hay cách khác. Quách Tấn là người duy nhất can đảm lì lợm sống chết với những gì còn lại với quê hương.
Thẩm mỹ học Tây phương đã thành tựu trong trận chiến tranh Việt Nam sau Rimbaud và Hoelderlin, Tây phương đã lặng chìm. Rimbaud ước mộng trở về Đông phương nguyên vẹn và Hoelderlin mơ mộng quay về với nguồn sông Indus ở Ấn Độ. Đang khi đó một lũ vong bản đua đòi chạy theo xác chết của Tây Phương; từ đám thơ mới tiền chiến ở Việt Nam cho đến đám thơ tự do ở miền Nam tất cả đám thi sĩ hèn mọn đều là những kẻ tiếp tay cho Tây phương tàn phá Việt Nam.
Những gì tôi nói hôm nay về Quách Tấn, tôi nói với tất cả thẩm quyền của một kẻ hiểu biết Tây phương nhiều nhất.
Tôi không muốn nói nhiều, tôi xin để lại trách nhiệm cho thanh niên Việt Nam hiện nay, trách nhiệm của những đứa con dân tộc đối với một thiên tài can đảm đã chịu đựng một mình, nuôi dưỡng một mình tất cả di sản tâm linh cao cả nhất của quê hương.
PHẠM CÔNG THIỆN
(Viện Đại học Vạn Hạnh 29/7/1970)