Nắng Sài Gòn
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát… (Nguyên Sa)
Hoàng Thuỷ Ngữ (Danlambao) – Sài Gòn, cái tên của một thành phố từng là ước mơ của Lý Quang Diệu, là sự khởi đầu cho lẽ sống của hơn một triệu người miền Bắc trong cuộc di cư vào Nam năm 1954 và cũng là nơi mầm móng tự do kết thúc. Sài Gòn, tụ điểm nuôi dưỡng những nét văn hóa miền nam riêng biệt, những ước mơ lãng mạn, ảo vọng, cuồng nộ một thời của tuổi trẻ miền Nam, là nỗi ám ảnh trong trí nhớ của những đoàn quân viễn chinh ngoại quốc, đã đi vào lịch sử Việt Nam và thế giới như một biến cố đẫm máu và nước mắt. Sài Gòn, cái tên của một thành phố cần phải xóa bỏ, theo quyết định của bên thắng cuộc, và thay bằng cái tên thành phố Hồ Chí Minh.
Từ ngày 30.04.1975, cái tên Sài Gòn đã vượt biển theo dòng người tỵ nạn, cùng có mặt khắp nơi trên thế giới. 44 năm trôi qua, Sài Gòn vẫn là biểu tượng của hy vọng, của sức sống năng động mãnh liệt, của một miền đất hứa. Cái tên Thành phố Hồ Chi Minh chỉ thấy trên các văn bản, giấy tờ hành chánh vô hồn.
Nền văn hóa cá biệt của miền Nam được cấu thành do hoàn cảnh địa lý, sự giao thoa văn hóa các dân tộc và chính sách giáo dục. Miền Bắc, kẻ chiến thắng, sau bao cố gắng tìm cách hủy hoại nền văn hóa này, cuối cùng vẫn phải học hỏi, thu nhập. Giá trị của nó được xác định qua thử thách của thời gian dù đã bị sự góp sức tàn phá của con người. Một nền văn hóa phong phú và đa dạng với một kho tàng sách báo, văn học, nghệ thuật… đã tìm lại được chỗ đứng của mình. Miền Nam, với sự ưu đãi của thiên nhiên và môi trường sống, đã sinh ra những con người chân thật, thẳng thắn, phóng khoáng, năng động và thực tiễn. Triết lý giáo dục giáo dục với 3 nguyên tắc căn bản nhân bản, dân tộc, khai phóng(*) đã sinh ra những lớp người tự trọng, lương thiện, yêu gia đình, quê hương và sự tự do. Dù có những hạn chế, khuyết điểm trong việc quản trị, đào tạo và xây dựng do hoàn cảnh chiến tranh, nền giáo dục này vẫn chứng tỏ được nó là một thực thể độc lập trong cơ cấu tổ chức chính trị miền Nam. Mô hình tự trị đại học là một ví dụ. Công việc giáo dục được hướng dẫn, điều hành bởi những chuyên gia, nhà giáo có tâm tận tụy trong ngành. Thành hình với một triết lý giáo dục, nền giáo dục này đã góp phần vào việc tạo dựng một nền văn hóa nuôi sống tâm hồn và bồi đắp tri thức độc lập cho nhiều thế hệ thanh thiếu niên miền Nam. Tâm hồn yêu người, yêu quê hương, dân tộc. Tri thức độc lập khao khát tìm tòi học hỏi nhưng không chấp nhận sự áp đặt tư tưởng. Tình tự dân tộc, tính nhân bản thể hiện rõ nét qua văn chương và âm nhạc. Chúng vượt lên trên những hận thù mang danh chủ nghĩa và các thủ đoạn chính trị.
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát… Một mâu thuẫn kỳ lạ và ngộ nghĩnh. Cái nắng gay gắt, chói chang của Sài Gòn trở nên mát Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông. Một kết hợp đi ngược lý luận bình thường nhưng lại đập mạnh vào tâm hồn người đọc, dù chỉ bằng sự mềm mại của tấm áo lụa, vì xuất phát từ nỗi lòng u uẩn và từ những mất mát tiếc nuối vô bờ.
Áo lụa Hà Đông không dừng lại như một bài thơ tình. Nó vượt qua dòng sông Bến Hải, nối dài những ước mơ đã bị chia cắt. Nó dẫn người đọc trở về những hình ảnh thơ mộng, thanh lịch của một Hà Nội ngày xưa, xa lắm. Nó đã đập vào trí tưởng tượng, làm rung động biết bao trái tim người miền Nam, dù họ chưa một lần đặt chân đến thành phố đó. Và rồi mãi mãi vẫn chỉ là một cuộc tình đã mất của nhà thơ và sự hoài tưởng trong giấc mộng dài của người đọc.
Màu con mắt bên màu xuân xiêu đổ
Ở bên kia nhìn trở lại bên này
Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay
(Trích: Người đi đâu… Bùi Giáng.)
Áo Lụa Hà Đông mở đầu như một nghịch lý. Người Đi Đâu kết thúc như nỗi đớn đau vì những bàn tay thô bạo, những tàn nhẫn, vô minh. Mở đầu bằng thực tại. Kết thúc bằng tâm thức đánh động lương tri con người.
Tình người là đặc điểm trong các sáng tác âm nhạc miền Nam. Nó luôn nở hoa trên đống tro tàn. Tình thương bên cạnh hận thù. Hy vọng bên cạnh tuyệt vọng. Xây dựng bên cạnh đổ nát. Hồi sinh bên cạnh cái chết. Những sáng tác của các nhạc sĩ như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Trần Thiện Thanh, Duy Khánh, Nguyễn Văn Đông, Nhật Ngân, Lam Phương v.v… đã được phổ biến khắp nước, trong hang cùng ngõ hẻm, ngoài tiền tuyến cũng như hậu phương. Chúng đi vào tâm hồn người Việt thuộc mọi tầng lớp xã hội một cách tự nhiên, không cần rao giảng, cổ vũ tuyên truyền. Chúng phản ảnh nỗi sợ hãi chiến tranh, tình tự dân tộc, tình nghĩa đồng bào, chán ghét sự lừa bịp chủ nghĩa đã đẩy dân tộc vào một cuộc chiến tàn khốc phi nghĩa.
Tính nhân bản là yếu tố chính để giải thích lý do tại sao loại nhạc vàng được yêu thích ở Việt Nam hiện nay. Đó là quyền lực mềm làm cái ác, sự lừa dối luôn phải lo sợ, tìm cách đối phó. Các cuộc tranh luận về thể điệu Bolero trong thời gian vừa qua rất vô ích. Sự thành công của một ca khúc là đi được vào lòng người. Bản hòa tấu Bolero của Maurice Ravel cứ mỗi 15 phút lại phát lên ở đâu đó trên quả địa cầu là một thí dụ điển hình, trong khi chính ông lại phủ nhận giá trị âm nhạc của nó: I have written a masterpiece. Unfortunately, there is no music in it.
Trước hết phải hiểu được những gì người khác đang hiểu nếu muốn giúp đỡ họ, theo Søren Kierkegaard, triết gia người Đan Mạch. Điều này có nghĩa là phải hiểu tại sao có những người tôn trọng, đề cao giá trị văn hóa hay tôn giáo của họ, nếu ta muốn thay đổi quan điểm của họ. Nếu không thì chỉ nói chuyện với những lỗ tai điếc. Tuy vậy cũng nên nhớ rằng chính mình cũng có thể sẽ bị thay đổi qua cuộc thảo luận. Bàn tròn của lý trí cũng giống như cảm tính của con người vậy. Bài học đầu tiên của lịch sử là cần sự khiêm tốn. Câu nói của Will Durant, sử gia người Mỹ, là lời khuyên cho tất cả những ai đang tham gia vòng quay lịch sử.
(*) Nguồn: Nền giáo dục ở miền Nam 1954 – 1975. Nguyễn Thanh Liêm.
17/9/2019