Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2017

120 bảo vật triều Nguyễn: Châu về hợp phố

120 bảo vật triều Nguyễn: Châu về hợp phố

Cách đây 17 năm, báo Tiền Phong đã có bài viết đề nghị nhanh chóng tiến hành thẩm định và đưa ra trưng bày hơn 120 bảo vật triều Nguyễn nhằm làm tăng thêm sức hấp dẫn của thành phố du lịch Đà Lạt. Thế nhưng đến tận bây giờ số báu vật này mới được ra mắt công chúng.

120 bảo vật triều Nguyễn: Châu về hợp phố - 1
Cung Nam phương Hoàng hậu, nơi trưng bày bảo vật triều Nguyễn.
Một lãnh đạo công tác lâu năm trong ngành văn hóa Lâm Đồng cho hay, trước đây ngành cũng đã đề nghị đưa bảo vật triều Nguyễn ra trưng bày để phát huy giá trị bộ sưu tập quý giá này nhưng do có vấn đề lấn cấn nên tỉnh chưa quyết. Đến tháng 10/2016, tỉnh mới chỉ đạo Sở Tài chính chuyển giao số hiện vật đang tạm giữ tại Kho bạc nhà nước cho Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng để gìn giữ, bảo quản lâu dài và phát huy giá trị.
“Bảo tàng đã phối hợp với chuyên gia hàng đầu về giám định cổ vật của Bộ VH-TT&DL và Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam để giám định, chỉnh lý và xác định niên đại của từng hiện vật. Qua đó có thể khẳng định đây là bộ sưu tập quý hiếm, từng được sử dụng trong cung đình triều Nguyễn, rất phong phú về loại hình và đa dạng về chất liệu. Nhiều hiện vật được xếp vào nhóm độc bản chỉ có ở Bảo tàng Lâm Đồng, thể hiện tính thẩm mỹ rất cao. Khung niên đại phổ biến vào khoảng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, cá biệt có hiện vật niên đại được xác định vào cuối thế kỷ 18”, Giám đốc Bảo tàng Lâm Đồng Phạm Hữu Thọ nói và cho biết thêm vì đây là bộ sưu tập có giá trị cao về kinh tế, lịch sử và văn hóa nên phải có thời gian để chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết mới có thể đưa ra trưng bày.
120 bảo vật triều Nguyễn: Châu về hợp phố - 2
Chậu rửa mặt của vua với thành bịt vàng, cẩn 119 hạt ngọc.
Chiếc chậu được cẩn 119 hạt ngọc của vua Khải Định
Tham quan khắp lượt Phòng trưng bày hiện vật “Cung đình triều Nguyễn” ở tầng 2 của Cung Nam Phương Hoàng hậu (trong khuôn viên Bảo tàng Lâm Đồng) nhưng không thấy chiếc chậu rửa mặt của vua với thành chậu bịt vàng, gắn 119 hạt ngọc nhiều màu tuyệt đẹp mà bác Nguyễn Đức Hòa (người có công lớn nhất trong việc cất giấu bảo vệ sự toàn vẹn của bộ hiện vật này) từng mô tả vào năm 2000. Theo lời bác Hòa, trước khi cất vào két sắt, bà Từ Cung nghẹn ngào nói: “Kỷ vật của Tiên đế (vua Khải Định - PV) đó! Người quý thứ này lắm nhưng tiếc là đã bị mất 2 hạt ngọc!”.
Giải đáp thắc mắc của tôi, anh Lê Phi Long, Phó phòng Sưu tầm bảo quản (Bảo tàng Lâm Đồng) khẳng định trong bộ hiện vật có chiếc chậu rất đẹp và ấn tượng nói trên nhưng chưa đưa ra trưng bày đợt này. Lãnh đạo Bảo tàng tiếp lời: Hiện mới trưng bày 36 bảo vật thôi, còn nhiều hiện vật “đỉnh” dự kiến sẽ xuất kho nhân dịp tổ chức Festival hoa vào cuối năm nay. Sắp tới sẽ đề nghị phía công an phối hợp để có phương án bảo vệ tối ưu đối với số hiện vật quý giá này.
120 bảo vật triều Nguyễn: Châu về hợp phố - 3
Tô ngọc vua Khải Định ban tặng cho hoàng tử Vĩnh Thụy.
Bù lại, trong số hiện vật đang được trưng bày thuộc nhóm những cổ vật ngự dụng (dùng trong hoàng cung) có nhiều vật dụng sinh hoạt sang trọng như chậu bạc, bình rượu ngọc, ly và chén ngọc bịt vàng, thau có vành bằng vàng… cho thấy cuộc sống xa hoa của các bậc đế vương triều Nguyễn. Đặc biệt, trong đó có chiếc bát ngọc nhất phẩm, kỷ vật do vua Khải Định ban cho Trưởng hoàng tử Vĩnh Thụy vào năm thứ 3 đời vua Khải Định (năm 1918); muỗng có cán bằng ngà voi, phần muỗng nghi được chế tác từ sừng tê giác.
Bên cạnh các hiện vật quý do những người thợ tài hoa trong Ngự xưởng triều đình nhà Nguyễn chế tác, còn có một số bát ngọc, bình ngọc, lọ ngọc cổ có nguồn gốc từ Trung Hoa, trong đó độc đáo nhất là cặp bát ngọc phỉ thúy với miệng bịt vàng mà nhà Thanh đã tặng cho triều đình nhà Nguyễn, đế có khắc dòng chữ Hán “Đại Thanh Càn Long niên chế”. Hoặc những tặng phẩm từ châu Âu như đĩa ngọc, bình rượu ngọc, bộ nồi gia dụng mạ vàng sáng lóng lánh từng được vua quan, hoàng tộc triều Nguyễn sử dụng.
120 bảo vật triều Nguyễn: Châu về hợp phố - 4
Nghiên mực hình chiếc lá sen bằng ngọc màu xanh xám.
Bút ngọc từ thời vua Tự Đức
Một trong những hiện vật gây ấn tượng đặc biệt nữa là chiếc bút bằng ngọc màu trắng ngà được chế tác từ năm 1848, năm trị vì đầu tiên của vua Tự Đức. Bút này dùng để soạn thảo những văn bản quan trọng, ngự phê tấu, sớ… Trên cây bút có khắc 2 dòng chữ Hán “Tự Đức nguyên niên” và “Ngự diên văn bảo”. Bút còn có chiếc nắp đậy bằng ngọc xinh xắn, được chạm khắc hoa văn tinh xảo.
Theo bà Đoàn Bích Ngọ, Phó Giám đốc Bảo tàng Lâm Đồng, trong bộ hiện vật văn phòng tứ bảo còn có các bảo vật đáng chú ý khác từng được sử dụng trong cung vua Nguyễn như thủy trì (dụng cụ đựng nước để rửa bút lông) hình lá sen bằng ngọc xanh có khắc gân lá rất ấn tượng, nghiên mực và gác bút bằng ngọc quý hiếm. Các hiện vật được sử dụng trang trí trong thư phòng hoàng cung cũng muôn hồng nghìn tía với đỉnh ngọc, phiến ngọc, đài sen… bằng ngọc quý.
Nhiều nhất là các bức tượng Phật và tiên nữ thể hiện tín ngưỡng thịnh hành của triều Nguyễn ở kinh thành Huế là Phật giáo. Bộ sưu tập tượng thú khá phong phú với các tác phẩm điêu khắc từ ngọc, đá quý, pha lê trong suốt. Từ con kỳ lân, một trong những tứ linh biểu trưng cho quyền uy đến voi, ngựa biểu trưng cho sức mạnh; ngoài ra còn có những bức tượng hươu nai tuyệt đẹp…
Nhiều cổ vật biểu thị quyền uy
Là người được tham gia giám định các bảo vật triều Nguyễn tại thành phố Đà Lạt, anh Lê Phi Long cho biết: Trong bộ sưu tập có 3 hiện vật là thẻ bài được chế tác bằng chất liệu ngọc màu trắng và trang trí hình rồng. Hai trong số đó là của vua Khải Định với mặt trước và mặt sau đều được chạm khắc tỉ mỉ. Một thẻ bài khắc nổi dòng chữ Hán nạm vàng “Khải Định trân bảo” và “Đại Nam Thiên tử”. Thẻ bài kia do vua Khải Định ban cho Hoàng Thái tử Vĩnh Thụy, mặt trước khắc các chữ Hán “Khải Định trân bảo”, còn mặt sau là dòng chữ “Đông cung Hoàng Thái tử”.
120 bảo vật triều Nguyễn: Châu về hợp phố - 5
Bức trấn phong “vạn thọ tứ tuần Đại Khánh”.
Về các bức trấn phong, đa số được chế tác bằng bạc có khắc chữ Hán mạ vàng. Hoành tráng nhất là bức “Vạn thọ tứ tuần Đại Khánh” bằng bạc có 9 chữ mạ vàng, 15 chữ bạc, một viên ngọc màu đỏ cẩn phía trên và các hoa văn rồng uốn lượn xung quanh. 17 năm trước bác Hòa từng mô tả tỉ mỉ với chúng tôi về bảo vật này. Bác cho biết bức trấn phong do Ngự xưởng chế tác nhân dịp sinh nhật lần thứ 40 của vua Bảo Đại, từng được trưng bày tại một phòng lớn trong Dinh 3, đến năm 1988, quá trình kiểm tra Dinh thự này, Tỉnh ủy Lâm Đồng đã đưa về bảo quản cùng các bảo vật triều Nguyễn khác. Trước đó vào dịp sinh nhật 30 tuổi của Hoàng đế Bảo Đại (năm 1943), Ngự xưởng cũng đã chế tác bức trấn phong bằng bạc và chạm khắc công phu hình ảnh “lưỡng long tranh châu”.
“Đúng là ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”, một du khách thốt lên khi tham quan khắp lượt gian trưng bày. “Đa số các hiện vật đã được chế tác hơn 100 năm nhưng vẻ đẹp vẫn không phai mờ. Ngọc là chất liệu rất cứng vậy mà được gọt đẽo, mài dũa và chạm khắc hoa văn tinh xảo thành những tác phẩm nghệ thuật độc đáo thế này cho thấy trình độ chế tác của những người thợ thủ công ở nước ta thời đó đã đạt đến bậc thầy”, Giám đốc Thọ hào hứng nói.
Riêng tôi, mỗi lần chiêm ngưỡng các bảo vật này lại nhớ đến bác Hòa. Suốt 33 năm với bao biến cố lịch sử, bác âm thầm cất giấu hai rương sắt đựng bảo vật rồi trao lại “kho báu” cho Tỉnh ủy Lâm Đồng vào năm 1988. Tôi nhớ giọng gốc Huế nhè nhẹ và chậm rãi của bác khi thuyết minh về Dinh 3. Tác phong điềm đạm, hòa nhã với mọi người dù quen hay lạ. Năm 2000, trò chuyện với chúng tôi, bác nói “mong nhà nước sớm thẩm định và đưa ra trưng bày số báu vật này cho mọi người cùng chiêm ngưỡng”. Mong ước ấy giờ đã thành hiện thực nhưng bác Hòa đã đi xa. Bác mất năm 2012 ở tuổi 85.
“Đa số các hiện vật đã được chế tác hơn 100 năm nhưng vẻ đẹp vẫn không phai mờ. Ngọc là chất liệu rất cứng vậy mà được gọt đẽo, mài dũa và chạm khắc hoa văn tinh xảo thành những tác phẩm nghệ thuật độc đáo thế này cho thấy trình độ chế tác của những người thợ thủ công ở nước ta thời đó đã đạt đến bậc thầy”, Giám đốc Tho.
Hành trình lưu lạc 120 bảo vật triều Nguyễn: Viên cận thần tận trung
Hơn 120 bảo vật triều Nguyễn từng được cất giấu nhiều nơi ở Huế, sau đó tiếp tục hành trình lưu lạc ly kỳ tại...
Theo Kim Anh (Tiền Phong)

Hành trình lưu lạc 120 bảo vật triều Nguyễn: Viên cận thần tận trung

Hành trình lưu lạc 120 bảo vật triều Nguyễn: Viên cận thần tận trung

Hơn 120 bảo vật của triều Nguyễn từng được cất giấu nhiều nơi ở Huế, sau đó tiếp tục hành trình lưu lạc ly kỳ tại thành phố Đà Lạt. Không chỉ có giá trị cao về mặt kinh tế, các chuyên gia đánh giá số bảo vật này còn mang ý nghĩa to lớn về văn hóa, lịch sử.

Hành trình lưu lạc 120 bảo vật triều Nguyễn: Viên cận thần tận trung - 1
Giám đốc bảo tàng (bên trái) nói về bức trấn phong “vạn thọ tứ tuần Đại Khánh”.
Từ những năm cuối của thế kỷ trước, khi tìm kiếm thông tin để viết về nét độc đáo của kiến trúc, hiện vật cũng như những chuyện thâm cung bí sử của vị vua cuối cùng ở nước ta tại Đà Lạt, chúng tôi từng nghe một số người xì xào bàn tán chuyện “ngọc ngà, bạc vàng” ở Dinh 3 hay còn gọi là Biệt điện Bảo Đại. Lời đồn đã được xác tín khi vào đầu tháng 3/2000, UBND tỉnh Lâm Đồng có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ và các ngành chức năng, trong đó xác nhận địa phương đang lưu giữ hơn 100 món vàng ngọc châu báu triều Nguyễn.
Hay tin số bảo vật này từng được cất giấu mấy chục năm tại Dinh 3, chúng tôi lập tức tìm đến dinh thự này để gặp bác Nguyễn Đức Hòa (sinh năm 1927, quê quán Thừa Thiên - Huế), cận thần của vua Bảo Đại và cũng là người làm việc lâu năm nhất tại đây. Thật bất ngờ, bác chính là người đã gìn giữ, cất giấu hàng trăm báu vật nói trên suốt mấy chục năm ròng trước tai mắt của nhiều đời tổng thống và tướng lĩnh từng làm việc và nghỉ dưỡng ở Dinh 3.
Hành trình lưu lạc 120 bảo vật triều Nguyễn: Viên cận thần tận trung - 2
Thẻ bài của vua Khải Định
Tại phòng tiếp khách lộng lẫy, uy nghi của dinh thự này, bác Hòa kể: Năm 1945, hoàng đế thoái vị, bà Từ Cung (mẹ cựu hoàng Bảo Đại) rời Đại nội về sống ở cung An Định. Khi đi, bà mang theo nhiều bảo vật của triều Nguyễn. Ổn định chỗ ở được vài tháng thì giặc Tây đánh phá dữ dội vào thành Huế, bà vội vàng mang số châu báu này đến cất giấu ở một ngôi nhà ven dòng Hương Giang. Những năm 1946-1948, chiến cuộc ngày càng leo thang, ngôi làng nhỏ ven sông chẳng mấy khi im tiếng súng. Thấy bất ổn, bà Từ Cung chuyển ngược các báu vật về cung An Định.
Năm 1949, được tin Bảo Đại sau 3 năm lưu vong đã trở về Việt Nam làm quốc trưởng, đồng thời thiết lập Hoàng triều cương thổ ở Tây Nguyên và chọn Đà Lạt làm thủ phủ, bà liền cho chuyển các báu vật vào Dinh 3 bằng máy bay riêng của vua Bảo Đại. Lúc đầu bà để những đồ vật quý giá đó trên phòng trang điểm của Hoàng hậu Nam Phương, sau đó chuyển xuống nhà kho cất vào 2 két sắt hiệu Graf – Jaque và Lephénix.
Hành trình lưu lạc 120 bảo vật triều Nguyễn: Viên cận thần tận trung - 3
Bát ngọc dùng trong các buổi yến tiệc của cung đình.
Két là một khối thép dày, kích thước 60x50x110cm, nặng hàng tạ với ổ khóa kép 4 chìa. Dưới sự hướng dẫn của bà Từ Cung, chúng tôi gồm 4 người (ông quản gia tên là Duy, ông Huỳnh Công Tráng, bác Hòa và một người nữa mà bác không nhớ tên-PV) dùng khay bê các món cổ vật xếp cẩn thận vào từng két. Dưới mỗi báu vật bà Từ Cung đều dán một mảnh giấy có dấu triện, đánh số rõ ràng. Tự tay bà xếp từng đồ vật quý giá vào khay. Sau khi xếp gọn vàng ngọc, châu báu vào két sắt, bà Từ Cung còn đặt vào mỗi két một bản danh mục liệt kê tất cả các báu vật. Từ đó đều đặn mỗi năm một lần vào mùa hè, bà lên Đà Lạt thăm quốc trưởng và kiểm tra các két sắt này.
Cũng theo bác Hòa, có lần bà Từ Cung kể, số vàng ngọc, châu báu này do nhiều đời nhà Nguyễn để lại và khi bài trí trong cung điện, dinh thự, một số báu vật, đặc biệt là các tượng Phật được các chuyên gia đánh giá như những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, không chỉ tinh tế về mặt nghệ thuật mà còn ẩn chứa sức mạnh tâm linh, trí tuệ của con người Việt Nam. Những báu vật đó chỉ có thể được chế tác bởi bàn tay tài hoa của các nghệ nhân, các cao thủ trong nghề chuốt ngọc, chạm vàng, đúc đồng…
Tưởng rằng “sóng yên gió lặng”, nào ngờ, năm 1955, Bảo Đại bị truất phế bởi vị tướng độc tài của mình là Ngô Đình Diệm và phải chạy sang Pháp xin lưu vong lần nữa. Biệt điện Bảo Đại lần lượt trở thành nơi nghỉ dưỡng, tiếp khách của các tổng thống Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu… “Làm thế nào mà suốt 20 năm dài đằng đẵng, không ai phát hiện ra nơi cất giấu các báu vật?”, tôi hỏi. “Có tất cả 5 người biết được điều bí mật này thì 3 người sống ở các tỉnh thành khác, riêng ông Duy mất sau đó ít lâu. Như vậy chỉ còn một mình tôi tỏ tường mọi việc”, bác Hòa trả lời. “Sao bác không trình báo việc này với ông Diệm, ông Thiệu?”. “Tôi không thích các ông đó”.
Hành trình lưu lạc 120 bảo vật triều Nguyễn: Viên cận thần tận trung - 4
Lư ngọc với hoa và lá khắc nổi.
Vậy là trong suốt 20 năm dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, bác Hòa đã tìm cách biến nhà kho thành nơi sinh hoạt cá nhân, khéo léo che đậy các tủ sắt sao cho thoát khỏi sự dòm ngó của những người xung quanh. Chỉ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bác mới báo cho các đơn vị quản lý dinh: Ban đầu là Văn phòng Trung ương (T78) sau đó đến Văn phòng Tỉnh ủy Lâm Đồng. Thế nhưng bác Hòa buồn bã nói: 12 năm ròng rã trôi qua mà không ai dám mở các két sắt này vì “sợ bọn ngụy gài chất nổ bên trong”.
Mãi đến năm 1988, Văn phòng Tỉnh ủy Lâm Đồng mới thành lập Hội đồng giám sát và tiến hành khui két, mang toàn bộ vàng ngọc châu báu về cất ở phòng làm việc của một cán bộ văn phòng trong trụ sở Ban Tài chính Tỉnh ủy (số 8B Quang Trung). Trong quá trình kiểm tra các phòng ở Dinh 3, Tỉnh ủy Lâm Đồng còn phát hiện một bộ tứ tuần Đại Khánh bằng bạc có 9 chữ bằng vàng, 15 chữ bạc và một viên ngọc màu đỏ phía trên, một bình nấu nước bằng bạc có nắp và cũng chuyển về cất giữ tại biệt thự 8B.
Đây là biệt thự cũ một tầng nằm sát đường Quang Trung, trục giao thông chính của thành phố Đà Lạt. Báu vật được cất trong một tủ gỗ cũ (3 mặt chìm trong tường) vừa cải tạo lại (gắn khung sắt, cửa sắt), có 3 khóa khác nhau được giao cho 3 người giữ, mỗi người một khóa. Chiếc tủ này được đặt tại phòng làm việc của ông Nguyễn Văn Dày, Phó Văn phòng Tỉnh ủy. Đó là căn phòng rộng chừng 22m2, có 3 cửa sổ, 2 cửa chính bằng gỗ, trong đó 1 cửa đi thẳng ra sân. Đáng lưu ý, trong khuôn viên biệt thự còn có một dãy nhà phụ và được bố trí cho cán bộ công nhân viên ở. Tham quan một lượt nơi cất giữ báu vật, nhiều người không khỏi thót tim về sự thiếu an toàn của nó.
Hành trình lưu lạc 120 bảo vật triều Nguyễn: Viên cận thần tận trung - 5
Đỉnh ngọc dùng để trang trí trong thư phòng cung đình Huế.
Hơn 8 năm sau, trước những ý kiến dị nghị, UBND tỉnh mới mời các ngành chức năng ở Lâm Đồng kiểm kê số báu vật nói trên và chính thức chuyển sang Kho bạc Nhà nước tỉnh Lâm Đồng. Tiếp xúc với một số thành viên ban kiểm kê tài sản của UBND tỉnh và tham khảo những biên bản mở két, bàn giao báu vật, chúng tôi được biết két thứ nhất hiệu Graf – Jaque có 51 món, trong đó 26 món bằng lương ngọc, 8 Agathe, 1 Hoate và 16 pha lê. Két thứ 2 hiệu Lephénix có 66 báu vật gồm 35 lương ngọc, 7 ngọc túy, 24 Agathe. Đó là những cổ vật biểu thị cho uy quyền của các vua quan triều Nguyễn như bút ngọc, phiến ngọc, trấn phong, thẻ bài của  nhà vua; những vật quý giá để trang trí cung đình, dinh thự như lư hương bằng ngọc, bình phong chữ vàng đế ngọc, các tượng kỳ lân, sư tử, voi, nai… được chế tác từ kim loại và phi kim loại quý như vàng, bạc, ngọc, pha lê.
Phong phú hơn cả là các tượng Đức Phật với đủ kích cỡ, màu sắc và kiểu dáng khác nhau. Về kích thước, một số tượng chỉ nhỏ bằng hộp diêm song cũng có tượng to cỡ chiếc bình thủy. Về hình dáng thì mỗi báu vật một vẻ: có những  tượng mang hình bà Phật nâng lộc bình, bê bình bông hoặc tọa đài sen; lại không ít những bức Phật ông cưỡi kỳ lân, đọc sách, đội mũ… Ngoài ra còn phải kể đến những vật dụng sinh hoạt sang trọng của vua chúa như bình rượu ngọc, thau có vành bằng vàng, chậu bạc, ly và chén ngọc bịt vàng, muỗng bịt vàng và cẩn ngọc…  
Cụ ông 81 tuổi hiến tặng bảo vật hoàng cung
Đó là chiếc cân tiểu ly có cán làm bằng ngà voi, dĩa và quả cân bằng đồng từng được vua Thiệu Trị dùng để cân vàng.
Theo Kim Anh (Tiền Phong)